Hơn 34.000 tấm mộc bản (bản khắc trên gỗ) chứa đựng nội dung của 152 đầu sách trên nhiều lĩnh vực được chế tác hoặc tập hợp từ thời Nguyễn được Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (Unesco) công nhận là Di sản Tư liệu Thế giới thuộc Chương trình Ký ức Thế giới. Giá trị của mộc bản mang tính văn bản, nghệ thuật và là dấu mốc cho sự phát triển nghề khắc ván in ở Việt Nam.
Dưới triều Nguyễn, do nhu cầu phổ biến rộng rãi các chuẩn mực, các điều luật của xã hội, triều đình đã cho khắc nhiều bộ sách sử và các tác phẩm văn chương để ban cấp cho các nơi. Mộc bản từ đó được ra đời. Đây là những tài liệu gốc độc bản. Tất cả các bản thảo nói trên đều được đích danh hoàng đế ngự lãm, phê duyệt bằng bút tích trước khi giao cho những người thợ tài hoa nhất trong cung đình khắc lên gỗ quý.
Mộc bản triều Nguyễn gồm 34.555 tấm mộc bản, "chế bản" của 152 đầu sách chủ yếu do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn trong giai đoạn 1802 - 1945... Tài liệu mộc bản có nhiều tác phẩm quý hiếm như Đại Nam thực lục, Đại Nam nhất thống chí, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ..., ngoài ra còn có các tác phẩm Ngự chế văn, Ngự chế thi do các vị hoàng đế nổi tiếng như Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức sáng tác. Kho tàng mộc bản triều Nguyễn có nội dung đa dạng, phản ánh mọi mặt xã hội Việt Nam dưới thời Nguyễn. Về lịch sử: có 30 bộ sách, gồm 836 quyển; ghi chép về lịch sử Việt Nam từ thời Hùng Vương dựng nước cho đến triều Nguyễn. Về địa lý: có 2 bộ sách, gồm 20 quyển; ghi chép về địa lý đã thống nhất ở Việt Nam và ghi chép về Hoàng thành Huế. Về chính trị - xã hội: có 5 bộ sách, gồm 16 quyển; ghi chép về sách lược của các triều đại phong kiến Việt Nam. Về quân sự: có 5 bộ sách, gồm 151 quyển; ghi chép về việc đánh dẹp các cuộc nổi dậy ở <st1:place w:st="on"><st1:city w:st="on">Bắc Kỳ, Nam Kỳ, Bình Thuận và một số nơi khác. Về pháp chế: có 12 bộ sách gồm 500 quyển; ghi chép về các điển chế và pháp luật triều Nguyễn. Về tư tưởng, triết học, tôn giáo: có 13 bộ sách, gồm 22 quyển; ghi chép về phương pháp tiếp cận kinh điển Nho gia. Về văn thơ: có 39 bộ, gồm 265 quyển; ghi chép thơ văn của các bậc đế vương và Nho gia nổi tiếng Việt Nam. Về ngôn ngữ văn tự: có 14 bộ sách, gồm 50 quyển; giải nghĩa Luận ngữ bằng thơ Nôm.
Năm 1960, toàn bộ những mộc bản ở Cố đô Huế đã được chuyển vào Đà Lạt. Khi mới chuyển vào, chúng được cất giữ tại Nha ngân khố và sau đó được chuyển đến nhà dòng Chúa Cứu thế. Đến năm 1983, toàn bộ số mộc bản còn lại được chuyển về Biệt điện Trần Lệ Xuân, nay là Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV. Những gì còn lại của kho mộc bản này vẫn chứng tỏ sự vô giá của nó: Bộ sách sử nổi tiếng Đại Nam thực lục được biên soạn và khắc in trong vòng 88 năm (1821 - 1909); bộ Hoàng Việt luật lệ (còn gọi là Bộ luật Gia Long) được Vua Gia Long cho ban hành năm 1815 được xem là một trong hai bộ luật nổi tiếng nhất của thời phong kiến Việt Nam...
Bản khắc mộc bản là khối tài liệu đặc biệt quý hiếm, do giá trị về mặt nội dung, đặc tính về phương pháp chế tác và những quy định rất nghiêm ngặt về việc ấn hành và san khắc. Đa phần những bộ sách chính văn, chính sử của triều đình đều do Quốc sử quán thực hiện theo chỉ dụ của vua, những bộ sách của tư nhân khi thực hiện san khắc cũng phải xin giấy phép. Chỉ những người có trách nhiệm và thẩm quyền làm việc tại Quốc sử quán mới được tiếp xúc và làm việc với chúng. Trước hết, hoàng đế ban dụ cho phép biên soạn sách. Sau đó cơ quan biên soạn dâng tấu xin được nghiên cứu châu bản để biên soạn, bản thảo hoàn thành dâng lên hoàng đế ngự lãm. Bản thảo được giao cho ban biên soạn bổ sung chỉnh sửa theo ý của hoàng đế. Ban biên soạn có nhiệm vụ lập biểu dâng sách lên hoàng đế ngự phê, sau đó sẽ chuyển xuống giao cho cơ quan san khắc dưới sự kiểm soát của các quan. Mộc bản sau khi khắc xong được các quan dâng biểu xin cho in thành sách.
Loại gỗ phổ biến nhất dùng làm ván khắc là gỗ thị. Loại gỗ này có ưu điểm là chất liệu gỗ rất dai, mềm và mịn, khó bị nứt nẻ nên chữ khắc trên đó sẽ không bị lệch. Còn theo sách Đại Nam nhất thống chí, mộc bản còn được chế tác từ "cây nha đồng, tục danh là sống mật, sớ gỗ trắng, sáng ngời như ngà voi". Thợ khắc mộc bản được lựa chọn từ các địa phương trong cả nước có nghề chạm khắc gỗ nổi tiếng, kỹ thuật khắc hoàn toàn là thủ công.
Với những giá trị đặc sắc về văn bản, nghệ thuật của mộc bản triều Nguyễn, ngày 31/7/2009, cùng với 34 tư liệu khác, Mộc bản triều Nguyễn là tư liệu đầu tiên của Việt Nam được công nhận là Di sản tư liệu thế giới thuộc Chương trình ký ức Thế giới của UNESCO.