An Định Cung là công trình kiến trúc nghệ thuật độc đáo của triều Nguyễn được xây dựng vào đầu thế kỷ XX, nằm bên bờ sông An Cựu, phường Phú Nhuận, thành phố Huế. Nguyên xưa, tòa nhà này được vua Đồng Khánh cho xây dựng và đặt tên là phủ Phụng Hóa với ý nguyện làm quà cho con trai trưởng là hoàng tử Nguyễn Phúc Bửu Đảo. Năm 1916, hoàng tử Bửu Đảo lên ngôi lấy niên hiệu Khải Định và để tưởng niệm nơi mình đã sinh ra và lớn lên, nhà vua cho xây dựng lại phủ Phụng Hóa bằng ngân sách của gia đình và đặt tên là cung An Định vào năm 1917. Năm 1922, theo ý nguyện của vua Khải Định, cung An Định được ban cho hoàng tử Vĩnh Thuỵ làm của riêng để tỏ lòng thương mến của vua cha. Năm 1945, sau khi làm lễ thoái vị tại Ngọ Môn (30.8.1945), Vĩnh Thuỵ cùng mẹ là bà Từ Cung và vợ là bà Nam Phương, các con cùng một số người hầu cận rời Hoàng thành qua sống tại cung An Định. Từ năm 1955, cung An Định bị chính quyền Ngô Đình Diệm tịch thu và trưng dụng làm khu chung cư cho một số gia đình công chức tại địa phương. Sau năm 1975, bà Từ Cung tự nguyện hiến cơ sở này cho chính quyền Cách mạng. Trong thời gian dài, cung An Định được sử dụng làm địa điểm văn hóa công cộng sau đó là nơi kinh doanh các dịch vụ ăn uống nhưng không được trùng tu, bảo dưỡng nên đã xuống cấp khá nghiêm trọng.
|
Cung An Định soi bóng trên dòng sông An Cựu |
Năm 2001, cung An Định được trùng tu và trở thành một trong những điểm tổ chức lễ hội Festival Huế 2002. Năm 2003, Đại sứ quán CHLB Đức đã tài trợ 17.000 Euro để phục chế 6 bức tranh tường quý hiếm ở nội thất tiền sảnh lầu Khải Tường. Bằng phương tiện kỹ thuật hiện đại, các chuyên gia phục chế di tích người Đức, đã nghiên cứu, phân tích và phục chế các bức tranh... Nhờ đó một nội thất nhà Khải Tường lâu sang trọng, lộng lẫy như bản thân nó đã từng có đầu thế kỷ XX dần xuất hiện.
Trong các dịp Festival Huế 2004, 2006, 2008, cung An Định luôn là một trong những địa điểm quan trọng diễn ra các hoạt động biểu diễn nghệ thuật, triển lãm trưng bày cổ vật... thu hút đông đảo lượng du khách đến tham quan đến Huế, góp phần không nhỏ làm nên thành công của các kỳ lễ hội Festival Huế.
Cung An Định là tập hợp các công trình lớn nhỏ do nhà thầu khoán Bang Hưng chỉ huy xây dựng với một ê kíp thợ giỏi nổi tiếng của Huế như: “Đệ nhất xảo thủ” Nguyễn Văn Khả, thợ vẽ Lương Quang Duyệt. Quay mặt về hướng nam, khuôn viên di tích cung An Định có diện tích là 23.463,15m2, phía trước có sông An Cựu làm yếu tố minh đường, bốn mặt được bao bọc bởi hệ thống tường thành xây gạch. Từ ngoài vào trong, chiếu theo trục bắc-nam, cung An Định gồm có các công trình sau: bến thuyền, cửa cung, Trung Lập Đình, vườn hoa, Khải Tường Lâu, Cửu Tư Đài, chuồng thú, hai dãy nhà ngang, vườn cung với cây cảnh và hồ nước, cuối cùng là cổng hậu. Công trình quan trọng nhất của cung An Định là Lầu Khải Tường với diện tích gần 750m2, được sử dụng làm nơi ở và sinh hoạt. Toà nhà được chia làm 3 tầng, bao gồm 21 phòng. Tầng trên cùng dùng làm nơi thờ tự, tầng 2 dùng để ở và đáng lưu ý nhất chính là tầng 1. Nội thất tầng 1 có 7 phòng, hai bên dùng để làm phòng ăn và đặt tiệc; phòng chính giữa làm nơi tiếp khách.
Nổi bật ở tiền sảnh này là 6 bức tranh trang trí trên các mảng tường, có khung gỗ ốp viền, chạm khắc hoa mai, lá sen cách điệu rất đẹp. Sáu bức tranh này tuy không đề tên nhưng khi nhìn hình vẽ, người xem có thể dễ dàng nhận biết đó là phối cảnh thật của 5 lăng:Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, Đồng Khánh; riêng bức tranh thứ 6 (tính từ trong ra ngoài) chưa rõ vẽ công trình gì. Có ý kiến cho rằng đây có thể vẽ là bức tranh vẽ lăng Khải Định khi đang ở dạng phác thảo trên bản vẽ và sở dĩ bức hoạ không giống với lăng Khải Định hiện nay vì sau chuyến đi Pháp (năm 1920) về, vua Khải Định đã cho thay đổi thiết kế lăng theo kiểu phương Tây nên không còn giống với bức tranh đã vẽ. Cả 6 bức tranh không có chữ ký của hoạ sĩ nên đến nay việc xác định tác giả của 6 bức tranh vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau. Năm 2003, khi trùng tu 6 bức tranh này, các nhà nghiên cứu đã phát hiện ở góc của 1 trong 6 bức tranh có chữ ký Nguyễn Văn Ngoan (hay Ngoãn).
Khi vào tham quan cung An Định, ngay sau Khải Tường Lâu, chúng ta bắt gặp một hệ thống nền móng của một công trình khá lớn, đó chính là nhà hát Cửu Tư Đài. Công trình này bị đổ nát vào năm 1947. Sau cuộc khai quật khảo cổ năm 2003, diện mạo nhà hát Cửu Tư Đài được phác họa lại; đó là một tòa nhà quay mặt về hướng bắc và nối với lầu Khải Tường bằng một hành lang. Nhà hát Cửu Tư Đài gồm có 2 tầng. Hệ thống sân khấu nằm ở giữa mặt nền tầng 1. Khán đài được thiết kế ở cả 2 tầng, phía xung quanh sân khấu. Khán đài danh dự, nơi vua và khán giả thượng cấp ngồi xem nằm ở tầng 2. Phong cách trang trí ngoại thất của Cửu Tư Đài gần giống như nhà hát lớn ở Hà Nội nhưng phần trang trí nội thất lại tương tự như Cung Thiên Định ở lăng Khải Định như các mặt tường đều được đắp nổi bằng nghệ thuật ghép sành sứ, thuỷ tinh, thể hiện đề tài trang trí truyền thống của Việt Nam. Diện tích của nhà hát rất lớn, khoảng 1500m2 và có sức chứa hơn 500 khán giả. Đầu thế kỷ XX, dưới thời Bảo Đại, Cửu Tư Đài còn là nơi diễn tuồng cải lương do Hoàng gia mời những gánh hát nổi tiếng ở trong Nam ra diễn như Phùng Há, Năm Phỉ...
So với các công trình kiến trúc xây dựng cùng thời thì Cung An Định là một công trình bề thế được khởi công và hoàn thành sớm nhất. Mở đầu cho thời kỳ mỹ thuật Huế tiếp xúc và chịu ảnh hưởng mỹ thuật phương Tây, Cung An Định đồng thời cũng tạo được nét đặc sắc riêng khi kết hợp một cách hài hoà giữa hệ đề tài trang trí truyền thống như tứ linh, tứ quý, bát bửu, hoa văn cách điệu với các trang trí cột theo phong cách Roman, bắc đẩu bội tinh hay các thiên thần... mang phong cách châu Âu. Các công trình lớn nhỏ trong Cung An Định đều có mối quan hệ gắn bó hài hòa với nhau trong một quan hệ tổng thể mang nhiều ý nghĩa, tạo nên bức tranh kiến trúc riêng nhưng hữu tình giữa lòng đô thị Huế.
Giữa năm 2008, do điện Long An (nơi trưng bày hiện vật của Bảo tàng Cổ vật cung đình hơn 80 năm qua) được đưa vào trùng tu theo kế hoạch, nhà trưng bày của Bảo tàng chuyển đến Cung An Định. Từ thời điểm ấy, Cung An Định còn là địa chỉ tìm đến cho những ai vốn yêu mến, tìm hiểu di sản văn hóa dân tộc qua các sưu tập cổ vật. Trong một không gian khiêm tốn, nhưng du khách sẽ có dịp được lắng nghe câu chuyện lịch sử và cảm nhận phần hồn của quá khứ mà dấu ấn thành quách cung điện, lăng tẩm chưa thể nào nói hết được.