Dân tộc Cơ tu tập trung chủ yếu ở miền núi phía tây huyện Phú Lộc và tây nam huyện A Lưới. Dù được gọi bằng nhiều tên như Kha tu, Ka tu, K’ tu,... (là sự phiên âm và cách viết chệch của tộc danh Cơ tu) hoặc Cao, Hạ,... (tên gọi theo địa danh) nhưng Cơ tu là tên gọi chính được đồng bào thừa nhận với nghĩa là người sống ở đầu ngọn nước.
Như phần đông các dân tộc cư trú ở vùng Trường Sơn-Tây Nguyên, người Cơ tu chuyên sống bằng trồng trọt trên rẫy theo kiểu du canh, du cư; chăn nuôi (trâu, lợn, dê, gà… theo phương thức thả rông, chỉ một số ít gia đình làm chuồng trại với vài chục con trâu); săn bắn và hái lượm vẫn còn giữ vai trò quan trọng trong đời sống hàng ngày và nghề truyền thống (đan, gốm, dệt,…).
Nghề đan lát của dân tộc Cơ tu
Làng bản của người Cơ tu - (vel) là đơn vị cư trú, là đơn vị tự quản trong xã hội truyền thống, đứng đầu có chủ làng (ta ko vel) do hội đồng già làng bầu ra. Bên cạnh chủ làng có người chỉ huy quân sự (tako tak cọp) lo việc luyện tập, chỉ huy và tổ chức các cuộc “săn đầu người”. Trong xã hội, tuy đã có sự phân hoá giàu nghèo nhưng chưa phân chia thành giai cấp. Mỗi làng có một khu vực riêng để ở, trồng trọt, chăn nuôi, săn bắn và thu hái lâm thổ sản, được bố trí theo hình tròn hoặc bầu dục, ở những nơi cao ráo, tương đối bằng phẳng và gần nguồn nước, có cấu trúc theo kiểu làng phòng thủ. Làng có sân làng, giữa sân có một cột (để làm lễ đâm trâu), nhà chung - gươl (thường là nhà sàn) được dựng ở vị trí trang trọng và được trang trí nhiều hình động thực vật bằng gỗ, được chạm khắc rất công phu,…. dùng làm nơi tiếp khách trọng, hội họp, cất giữ các đồ quý của làng. Những năm gần đây, một số làng đã không còn tuân thủ kiểu làng truyền thống, tuy vậy, vẫn phải theo nguyên tắc (hướng các cây đòn nóc của những nhà kề cận không được đâm vào nhau). Nhà của người Cơ tu là nhà sàn, mái tròn, nhỏ và thấp, phần lớn cho một gia đình cư trú. Bao giờ nhà cũng có một cây cột cái ở chính giữa để đỡ cây đòn nóc, xung quanh có nhiều cột khác nối với cây đòn nóc bằng các kèo gỗ, được che kín bằng các liếp tre hoặc nứa cao từ sàn đến mái….
Người Cơ tu có tổ chức capu hay tô, giống như họ của người Việt, đó là những người có cùng một ông tổ chung, cùng dấu hiệu nhận nhau và liên quan đến một huyền thoại hay một tập tục kiêng kỵ nhất định, đứng đầu cabu là ta ko capu - có trách nhiệm giải quyết các việc xảy ra trong capu hoặc giữa capu với làng.
Đàn ông Cơ tu cởi trần, đóng khố. Đàn bà cũng thường cởi trần, chỉ buộc một mảnh vải như cái yếm che ngực, mặc váy ngắn đến gối. Nam và nữ Cơ tu thường búi tóc, trên có gim những chiếc răng lợn, lông nhím hoặc que tre vót nhọn, ở một số nơi cắt tóc ngắn, xén bằng ở trước trán kiểu mái tranh và có tục xăm mình, xăm mặt với các hình vẽ đa dạng, ngoài ra một số nơi có tục cưa răng cho thanh niên nam nữ đến tuổi trưởng thành kèm theo lễ đâm trâu. Phụ nữ Cơ tu chuộng các loại trang sức như vòng tay, khuyên tai, vòng cổ ….
Hình thức hôn nhân một vợ một chồng và cư trú bên chồng, về nguyên tắc là ngoại hôn, một chiều và dây chuyền. Tuy nhiên, còn những biểu hiện của hôn nhân nguyên thuỷ (hôn nhân cướp đoạt; hôn nhân anh em chồng; hôn nhân chị em vợ; đàn bà goá còn có thể ăn ở với bố chồng, cũng như con trai có thể ăn ở với vợ lẽ của bố đẻ hoặc bố vợ khi bố đẻ hay bố vợ qua đời…). Chế độ phụ quyền ở người Cơ tu đã khá vững chắc, người chủ gia đình, có quyền hành và được thừa kế tài sản đều là đàn ông.
Trong đời sống hằng ngày của người Cơ tu, quan niệm về “vạn vật hữu linh”, những tập tục kiêng cữ vẫn còn in đậm trong nếp nghĩ, được áp dụng khá khắt khe trong sinh hoạt và sản xuất. Họ có những lễ tục liên quan đến tô tem. Ngoài ra, người Cơ tu còn có các lễ tục thờ thần bản mệnh, ma thuật chữa bệnh, ma thuật làm hại, lễ hội. Lễ đâm trâu có nguồn gốc từ tục hiến sinh cầu mùa xa xưa. Lễ này có thể được tổ chức trong phạm vi gia đình, dòng họ và cả cộng đồng. Bên cạnh đó, kho tàng văn nghệ dân gian của dân tộc Cơ tu độc đáo với nhiều bài hát, điệu múa, bài thơ, truyện kể được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác; nghệ thuật điêu khắc và trang trí truyền thống cũng rất tinh xảo với những bức vẽ, chạm khắc ở nhà gươl, những bức tượng khoả thân treo ở cổng làng hoặc những bức tượng rất đa dạng phản ánh nhiều tâm trạng của con người ở xung quanh các nhà mồ...