Đầu năm 1948, chiến trường Thừa Thiên Huế bắt đầu hình thành các vùng: vùng tự do, vùng căn cứ du kích, vùng du kích và vùng tạm chiếm. Ở mỗi vùng địch có những thủ đoạn khác nhau để đối phó. Các vùng du kích và căn cứ du kích chúng tập trung đánh phá rất ác liệt. Vùng tạm chiếm thì chúng lập hội tề kiểm soát chặt chẽ mọi hoạt động của nhân dân. Tính đến tháng 5/1948, ở Thừa Thiên Huế địch đã lập được 462 hội tề trong tổng số 548 thôn và đóng quân ở 48 đồn bốt.
Để đưa cán bộ nhanh chóng trở lại bám đất bám dân, ta có chủ trương đưa người của ta vào các hội tề và phát triển rộng rãi các loại hầm bí mật.
Trên lĩnh vực quân sự, đầu năm 1948, nổi lên một số trận đánh của bộ đội ta như trận diệt đồn Câu Nhi trên đường Quốc lộ I vào ngày 23/1, trận chống quân Pháp càn lên chiến khu Hòa Mỹ từ ngày 7 đến 23/3/1948.
Trước sự chuyển biến, phát triển tích cực của tình hình đòi hỏi sự tăng cường trực tiếp chỉ đạo của Tỉnh uỷ nhằm bám sát địa bàn hoạt động. Tháng 5 năm 1948, Tỉnh uỷ và các cơ quan chỉ đạo kháng chiến chuyển từ chiến khu Hoà Mỹ vào căn cứ Dương Hoà cách Huế 12km về phía Tây.
Bước vào thu đông năm 1948, lực lượng của Đảng bộ Thừa Thiên Huế có bước phát triển đáng kể. Tổng số đảng viên của toàn tỉnh lên tới 1.547 đồng chí, tăng thêm chất lượng lãnh đạo kháng chiến, nhất là ở cơ sở.
Trên mặt trận kinh tế, ở vùng giải phóng ruộng được chia theo nguyên tắc nam nữ bình quyền, sản xuất phát triển mạnh, các chợ kháng chiến được thành lập ở vùng căn cứ, tờ bạc Việt Nam được phát hành rộng rãi. Công phiếu kháng chiến chỉ phát hành trong thời gian ngắn đã được nhân dân mua trên 5 triệu đồng. Không chỉ nhân dân ở vùng tự do mà nhân dân ở vùng địch tạm chiếm cũng tích cực mua công phiếu kháng chiến.
Trong thời gian này, ngoài những trận đánh có quy mô khá lớn như trận tiến công tiêu diệt đồn Mỹ Lợi (267/1948), đồn Hà Thành (87/1948), còn có những hoạt động kháng chiến ở thành phố Huế do Đội Công an danh dự của tỉnh và Hội học sinh kháng chiến Thuận Hóa tiến hành.
Sang đến năm 1949, để đối phó với sự phát triển của lực lượng kháng chiến, địch ráo riết tung quân càn quét, dựng lại các hội tề, chấn chỉnh các đồn bốt.
Về phía ta, do biết kết hợp gữa đấu tranh quân sự, chính trị và binh vận mà cuộc kháng chiến của ta có thêm những thắng lợi mới. Những tháng đầu năm 1949, ta đã làm thất bại cuộc tiến công của 2.000 tên địch có máy bay yểm hộ lên chiến khu Dương Hòa, tiến công bốt Vỹ Dạ (2/3), tiêu diệt đồn Vân Trình (18/3), bẻ gãy trận càn lên vùng núi Khe Tre, Nam Đông (4/1949), chiến thắng trận Hói Mít, Phú Lộc (12/1/1949).
Ngày 16/4/1949, tại chiến khu Dương Hòa Hội nghị đại biểu Đảng bộ tỉnh được triệu tập. Hội nghị đã quyết nghị những vấn đề quan trọng để đưa sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc của tỉnh tiến lên. Nghị quyết của Hội nghị nêu rõ: “phát huy tất cả mọi lực lượng của nhân dân, đánh mạnh vào địch về mọi mặt chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa; làm cho ta mau mạnh, địch mau yếu”, “phát triển Đảng thật mạnh mẽ và đều khắp nơi, củng cố phải đi đôi với phát triển”; “bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp”, “củng cố các đoàn thể cứu quốc và Mặt trận Việt Minh để làm nòng cốt cho Hội Liên Việt”, “mở rộng chiến tranh du kích,... tiến tới vận động chiến... mở rộng phạm vi kiểm soát của ta”, “bao vây, phá hoại kinh tế địch, bỏ đồng bạc Đông Dương trên thị trường ta”....
Qua tháng 5/1949, ta bắt đầu xây dựng lực lượng quân sự cấp tiểu đoàn, trung đoàn để có thể đánh tiêu diệt với quy mô lớn.
Các lĩnh vực khác phục vụ kháng chiến cũng đi lên như tổ chức bầu cử Hội đồng nhân dân xã và tỉnh; mở trường học, tổ chức các kỳ thi; nâng cao tỷ giá đồng bạc Hồ Chí Minh so với đồng bạc Đông Dương.
Tổ chức cơ sở Đảng ngày càng lớn mạnh, năm 1949 toàn tỉnh có 9.578 đảng viên.
Với những thắng lợi đó, Phó Thủ tướng Chính phủ Phạm Văn Đồng đã gửi điện khen ngợi: “Bình Trị Thiên kháng chiến ngày càng vững mạnh lên, địch cũng phải công nhận. Đó là điều đáng khen”.
Theo Địa chí Thừa Thiên Huế - Phần Lịch sử
(Nhà Xuất bản Khoa học xã hội - năm 2005)