Tại Festival Huế 2010, lần đầu tiên Giáo hội Phật giáo tỉnh Thừa Thiên-Huế trình diễn chương trình Lễ nhạc Phật giáo (tại Liễu Quán tối 9.6) và múa “Lục cúng hoa đăng” (7.6 tại chùa Từ Đàm) đúng như nguyên bản.
Nét độc đáo của tán, tụng VN 
Lễ
nhạc Phật giáo Huế trình diễn tại Festival Huế 2010 với ba nội dung chính: Lễ
Bật Phật khai kinh (trình với đức phật những công việc mở đầu) Lễ Bạt độ giải
oan (nhổ sạch gốc rễ oan gia) và Lễ đăng đàn chẫn tế (cầu nguyện cho những hương
hồn không nơi nương tựa).
Lễ nhạc Phật giáo không những giữ vị trí quan
trọng trong kho tàng âm nhạc dân tộc ta mà còn được bạn bè thế giới đón nhận.
Năm 1997, Lễ nhạc Phật giáo Huế được mời sang dự Festival Âm nhạc trí tưởng
tượng tại Đài Phát thanh Pháp. Năm 1998, một lần nữa Lễ nhạc Phật giáo Huế được
mời trình diễn tại Nhà Văn hoá thế giới Paris (Pháp). Buổi trình diễn đã được
ghi lại và phát hành 20 nghìn đĩa. Với thời lượng 90 phút, đĩa này đã được các
nhà nghiên cứu thế giới bình chọn là 1 trong 10 đĩa CD hay nhất năm 98 về âm
nhạc Phật giáo.
Hoà thượng Thích Giác Đạo - Phó Thư ký, Chánh văn phòng
Ban trị sự Phật giáo Thừa Thiên-Huế, người có mặt trong đoàn Lễ nhạc Phật giáo
Huế tại Festival Âm nhạc trí tưởng tượng tại Đài Phát thanh Pháp năm 1997 - nhớ
lại: “Nhiều người Pháp khi xem chúng tôi biểu diễn xong đều có chúng nhận xét là
“rất lạ với chúng tôi nhưng chúng tôi thấy tâm hồn thanh thản. Các vị sư đã đem
đến cho chúng tôi một tâm linh rất Việt Nam”. Vậy cái gì đã làm nên “một tâm
linh rất Việt Nam” ấy?”.
GS Trần Văn Khê nhận xét: Lễ nhạc Phật giáo Việt
Nam nói chung và Huế nói riêng thuộc trường phái tán tụng Bắc tông (cùng với Ấn
Ðộ, Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản).  Tuy có cùng trường phái, nhưng lại không
có một thể nhạc Phật giáo chung cho các nước Ðông Á, như cách hát “chant
grégorien” chung cho các nước Tây Âu… là bởi  lời kinh giống nhau nhưng nét nhạc
của các tụng, tán, tuỳ mỗi nước, mỗi vùng mà thay đổi. Ở ta, nhạc Phật giáo bắt
nguồn từ nhạc dân tộc, mang hơi điệu nhạc dân gian, nhạc thính phòng, nhạc dân
khấu và nhạc lễ trong cung đình VN.
Nét nhạc của các bài tụng, tán rất
phong phú và tế nhị, lại thay đổi tuỳ theo miền, theo vùng. Mà thang âm, điệu
thức dùng trong những bài tán, tụng rất gần thang âm điệu thức của tiếng hát ru,
những điệu dân ca đặc biệt của mỗi vùng. Nhạc mang tính chất thanh thản, nghiêm
trang, đôi khi buồn man mác, mà không bi lụy. Nhạc gợi một bầu không khí trang
nghiêm trầm lặng, giúp cho người tụng kinh và người nghe kinh có thể tập trung
tư tưởng vào nghĩa của lời kinh. Gần đây, cách tụng, tán, trong Phật giáo Việt
Nam có xu hướng đi đến chỗ giản dị hoá.
|
Múa “Lục cúng hoa đăng” của Nhã nhạc Cung đình Huế. Ảnh:
H.V.M |
Múa “Lục cúng hoa đăng” nguyên
bản
Tối ngày 7.6 tại chùa Từ Đàm, điệu múa “Lục cúng hoa đăng”
của nhà Phật đã làm nức lòng hàng ngàn du khách và người dân Huế. Theo Hoà
thượng Thích Giác Đạo, đây là điệu múa được phục dựng thành công một cách chi
tiết, tròn vẹn cả nội dung và hình thức vào năm 2003, đúng như nguyên bản của
Phật giáo sau hơn 30 năm vắng bóng.
Trên nền cổ nhạc Phật giáo,  điệu múa
được phân bố thành 3 phần chính: Triệu thỉnh Tiên đồng bái Phật hành đàn Song
lục và chồng bình dâng phẩm cúng kết chữ “thiên hạ thái bình” và tự quy hồi
đàn. Điệu múa được 30 tăng sinh thể hiện. Theo từng điệu tán ngân nga, du dương,
trầm tĩnh, tiếng kèn tiếng trống, tiếng não bạt  đánh liên hồi, các vũ sinh là
các vị tăng sinh được hoá trang thành các vị tiên, đầu đội mũ trang kim, mình
mặc áo mã tiên, chân đeo xà phù xuất hiện kèm theo tiếng hô, ứng rất uy
dũng.
Các điệu múa “Hành đàn bái Phật”, “Vấn liên đăng” (các vũ sinh kết
với nhau theo hình hoa sen), “Vấn kết  thằng” (vũ sinh kết với nhau theo hình
sợi giây), “Vấn tứ châu” (kết với nhau tại 4 góc đàn) xen kẽ có rất nhiều điệu
múa phức tạp phối hợp nhịp nhàng giữa cổ tay, cổ chân, thân mình trong cùng một
điệu múa như “Hội Phật tiền”, “Nhạn giới”, “Hoa khai hoa hạp”.
Theo nhiều
tài liệu Phật giáo, vũ khúc “Lục cúng hoa đăng” có tên ban đầu là “lục cúng” (6
lần cúng) có từ thời cổ, do các vị sư Ấn Độ truyền vào nước ta. Hằng năm khi vụ
mùa được bội thu, tại các chùa lớn thuộc các hạt Thuận Thành, Văn Lâm, Mỹ Hào,
Yên Mỹ, Thường Tín - các nơi thờ Phật Tứ Pháp - những lúc có tổ chức các lễ lớn
đều biểu diễn vũ khúc này để dâng hương, hoa, đèn, trà, quả, thực lên Tam
Bảo.
Ở Huế, các vị Tăng am tường và đã từng trình diễn về vũ khúc này
hiện còn sống cũng chỉ biết vũ khúc “Lục cúng hoa đăng” là do chư Tổ truyền lại.
Đồng thời, trong các thế hệ thầy Tổ của Phật giáo xứ Huế đều có nhiều vị rất
giỏi và điêu luyện về vũ khúc này. Tuy nhiên đến đời Minh Mạng (1820 - 1840),
vua sai Viện Hàn lâm học tập, tiếp nhận và sửa lại vũ khúc này thàh một vũ khúc
cung đình. Cái tên “Lục cúng hoa đăng” chính thức có từ thời ấy.
So với
“Lục cúng hoa đăng” của nhã nhạc cung đình Huế, điệu múa này  trong Phật giáo
vẫn còn bảo lưu được sự phong phú về hình thức, sự đa dạng về nội dung. Đặc
biệt, chức năng, tính chất, môi trường diễn xướng và mục đích của nó vẫn còn giữ
gìn trọn vẹn.
Trong khi Nhã nhạc cung đình Huế do môi trường diễn xướng
không còn giữ nguyên như thời phong kiến cho nên “Lục cúng hoa đăng” của cung
đình đã không còn bảo lưu được chức năng nghi lễ của nó. Công việc phục hồi hiện
tại cũng chỉ đạt đến 60%. Và do mục đích giới thiệu, phục vụ du lịch là chủ yếu,
nên vậy vũ khúc này chưa bao giờ được trình diễn có tính bài bản trọn
vẹn.